Tôi định quay trở ra sân xem xét, nhưng vừa xoay người, khóe mắt lại bắt gặp một bóng người đứng giữa
căn phòng nhỏ bên phải.
Đó là một người phụ nữ vận trên mình bộ hỷ phục đỏ rực.
Ánh trăng nhợt nhạt xuyên qua cửa sổ, chiếu xuống tà váy đỏ, trông hệt như có máu đang rỉ ra.
Tôi từ từ đặt tay lên thắt lưng, may thay, chiếc roi đánh hồn vẫn còn đó.
Cây roi này được làm từ mười một đoạn gỗ đào, là báu vật mà tôi vô tình nhận được từ một đạo sĩ già khi
còn nhỏ.
Khi trao nó cho tôi, ông lão từng nói: “Tướng Tu La, lòng Bồ Tát, đời này định sẵn phải ăn cơm âm dương.”
Tôi chậm rãi rút roi ra, đối diện thẳng với người phụ nữ ấy.
Gương mặt cô ta trắng bệch, phần lớn ngũ quan bị mái tóc xõa che khuất, nhưng tôi có linh cảm, cô ta vẫn
còn rất trẻ.
Chúng tôi im lặng đối diện nhau, từng luồng gió lạnh luồn qua khe cửa.
Bỗng nhiên, cô ta ngẩng cằm, chậm rãi mở miệng.
Từng mảng bùn đất lớn từ trong miệng cô ta rơi ra.
Tôi nhíu mày, định ra tay trước thì bên ngoài cửa sổ đột nhiên vang lên một tiếng gào thét chói tai.
Cánh cửa chính bị đập “rầm” một tiếng, bật mở.
Chiếc kiệu hoa đỏ chót lặng lẽ xuất hiện trước cửa.
Tôi quay đầu lại nhìn người phụ nữ, nhưng căn phòng đã trống rỗng.
Tôi không dám lơ là, vì cỗ kiệu hoa đó vẫn còn chắn ngay cửa. Tôi nghi ngờ nữ quỷ đã ngồi vào bên trong,
liền từng bước tiến lại gần.
Ban đầu, tôi nghĩ đây chính là chiếc kiệu giấy mà mình đã vận chuyển đến, vì cả bốn phu kiệu đều trông
giống hệt nhau.
Chỉ là, khi đến gần hơn, tôi phát hiện ra có sự khác biệt. Thân kiệu được vẽ đủ loại hoa văn, hầu hết đều là
những nghi thức của một đám cưới truyền thống. Có cảnh tân nương bước vào kiệu hoa, bà mai dìu cô dâu
lên kiệu, đoàn rước dâu vừa đi vừa tấu nhạc…
Nhưng nếu nhìn kỹ, trong tất cả các bức tranh về lễ cưới ấy, mặt của bốn người phu kiệu đều là khuôn mặt
quỷ.
Tôi giật mình ngẩng phắt lên, liền thấy gương mặt của bốn phu kiệu đã hóa thành quỷ dữ.
Tôi rút roi đánh hồn ra, quất mạnh vào không trung!
Ngọn roi cuốn lên rèm kiệu, để lộ ra vài bàn tay trắng bệch như xác chết bên trong, nhưng chúng nhanh
chóng rụt lại. Nữ quỷ không có trong kiệu.
Bốn phu kiệu nhấc bổng cỗ kiệu lên, đồng loạt lùi về sau, chỉ trong chớp mắt, chiếc kiệu đã biến mất.
Lẽ nào đây là kiệu quỷ?
Tôi lờ mờ nhớ đến truyền thuyết về khu vực Nam Đà Phong.
Ngày xưa, Nam Đà Phong có một biệt danh, gọi là “Kiệu Nữ Nhi”, vì trên núi có một tảng đá hình dáng giống
hệt một chiếc kiệu hoa.Sau này, không biết lời đồn bắt đầu từ đâu, mọi người đều nói tảng đá đó chính là kiệu quỷ.
Những cô gái sắp kết hôn đều phải tránh đi qua Nam Đà Phong, vì kiệu quỷ sẽ bắt cô dâu. Nếu bị bắt đi thì
không bao giờ tìm lại được nữa.
Tôi bối rối bước ra khỏi phòng, lúc này sân viện cũng đã trở nên hoang tàn.
Cỏ dại mọc cao đến nửa người, chẳng còn chút dấu vết nào của bữa tiệc náo nhiệt khi nãy.
Tôi cũng không thấy bóng dáng cha con Dương Hoành và Dương Nham đâu cả. Ngôi làng này rõ ràng đã bị
bỏ hoang từ lâu, xung quanh tĩnh lặng một cách đáng sợ.
Đột nhiên, một bóng đen nhanh nhẹn lao vụt qua chân tôi.
Nó quăng một vật gì đó trước mặt tôi, rồi lập tức biến mất vào đám cỏ rậm.
Tôi cúi xuống nhìn, đó là một chiếc giày thể thao.
Phần trên của giày vẫn còn khá mới, dù bị dính nhiều bùn đất, nhưng rõ ràng không phải giày cũ bị bỏ lại từ
lâu.
Tôi nhặt chiếc giày lên, nhìn vào kích cỡ và thiết kế, có vẻ như là giày nữ.
Nhưng một nơi hoang vu như thế này, làm sao lại có giày của phụ nữ?
“Long huynh đệ?” Giọng nói của Dương Hoành đột nhiên vang lên, làm tôi giật bắn mình. Theo phản xạ, tôi
giấu vội chiếc giày ra sau lưng.
Quả nhiên là Dương Hoành, hắn đứng ngoài cổng viện, cuống quýt vẫy tay gọi tôi: “Long huynh đệ, mau ra
đây! Nơi này không ổn đâu, hình như có lũ mèo núi xuất hiện rồi!”
Ở vùng này, mèo núi thực ra là cách gọi của dân bản địa dành cho loài linh miêu hoang dã. Đặc biệt, ở Nam
Đà Phong loài linh miêu rất nhiều.Trong lời kể của người xưa, linh miêu không khác gì một trong năm vị tiên của vùng Đông Bắc. Chúng có
linh tính, hiểu chuyện con người, có con tu luyện để được phong thần, có con thì mê hoặc con người, dụ
vào hang động để ăn thịt