Ta nằm trên giường nóng hầm hập, quấn hai lớp chăn dày vẫn thấy lạnh từ trong xương cốt.
Triệu Đắc Thiên lo đến mức vừa chạm vào trán ta, lập tức xoay người chạy ra cửa, muốn đi mời lang
trung.
Nhưng mẹ chồng ta lại kéo hắn lại: “Sao đang khỏe mạnh lại phát sốt? Không phải là ‘chạm khách’ đấy
chứ?”
Nói rồi, bà sờ soạng trong bếp, lấy ra một bát nước cùng ba đôi đũa.
Một chiếc đũa đặt ngang trên miệng bát, hai chiếc còn lại bà nắm trong tay, miệng lẩm nhẩm niệm chú:
“Hai, năm, tám—chạm khách ở nhà. Ba, sáu, chín—chạm khách rời đi. Người chết oan, chết bệnh,
theo đũa mà đi—”
Bà đặt hai chiếc đũa vào bát nước, thử một lần, hai lần, ba lần…
Hai chiếc đũa thế mà đứng thẳng trong nước!
Mẹ chồng ta vỗ đùi, thở dài: “Hừ, là cụ cố của con rồi! Năm xưa bà cụ yếu ớt, bệnh tật quấn thân.
Được rồi, đã tiễn cụ đi, con ngủ một giấc là khỏe thôi!”
Triệu Đắc Thiên vẫn bán tín bán nghi, sờ trán ta một lần nữa rồi nghiêm giọng: “Mẹ, vẫn nên mời lão
Điền đến xem một chút.”
Mẹ chồng ta phẩy tay, cười ha hả: “Tụi con ngày bé cũng đều do ta ‘đuổi khách’ mà khỏi bệnh!”
Ta thấy bà tự tin như vậy, trong lòng cũng yên tâm hơn một chút.
Nhưng đến nửa đêm, ta lạnh run cầm cập, hàm răng va vào nhau lập cập, cơn sốt càng lúc càng nặng.
Lần này, Triệu Đắc Thiên thật sự cuống lên, mặc vội áo, mò mẫm trong bóng tối chạy ra ngoài.
Trong thôn có một lão Điền, từng cứu nhiều người khi dịch bệnh hoành hành, y thuật rất cao minh.
Nhưng ông ta là người độc thân, sau này nhận cháu gái thứ hai của Trần đại nương làm đồ đệ, nhờ đó
được Trần gia cất cho một căn nhà nhỏ, sống an hưởng tuổi già.
Mẹ chồng ta sờ trán ta nóng rực, trong lòng cũng hoang mang không yên: “Sao không đỡ nhỉ? Rõ ràng
đã tiễn đi rồi mà!”
Bà thở dài: “Lão Điền đã có tuổi, nửa đêm canh ba, không biết ông ấy có chịu đến hay không.”Lão Điền không đến, nhưng đồ đệ của ông—Trần Thu Muội—đã tới.
Nàng tầm tuổi ta, dáng người cao ráo mạnh mẽ, ánh mắt sắc lạnh, không nói cười tùy tiện.
Dưới ánh nến, nàng bắt mạch cho ta, sau đó lấy ra một bộ kim châm sáng loáng, xếp thẳng tắp trên
bàn.
Nhìn hàng kim dài hơn cả ngón tay, ta sợ đến mức hồn vía bay lên chín tầng mây!
“Không phải nói chỉ cần uống thuốc vài ngày là khỏi sao?”
Ta run run hỏi.
Thu Muội gật đầu dửng dưng: “Đúng, chỉ là muốn nhắc ngươi, nếu về sau không biết giữ gìn sức khỏe,
thì kim này không phải bày trên bàn, mà sẽ cắm đầy trên người ngươi.”
Triệu Đắc Thiên từng bị nàng châm cứu, nên khi thấy hàng kim sáng quắc, hắn cũng không khỏi run
rẩy, nổi da gà toàn thân.
“Thu Muội, thu kim đi, trông ghê rợn quá!”
Thu Muội nhếch môi cười khẩy: “Ghê rợn? Nương tử nhà huynh bị bệnh mà không chịu tìm đại phu, lại
đi ‘đuổi khách’ linh tinh, còn có chuyện nào đáng sợ hơn không? Nếu mấy trò bịp bợm có tác dụng, thì
cần lang trung làm gì?”
Mẹ chồng ta bĩu môi, không phục: “Bà con quê mùa chúng ta, bao đời nay đều như vậy mà sống qua
ngày.”
“Nhưng thế hệ này phải thay đổi!”
Nói rồi, Thu Muội quay sang nắm cằm mẹ chồng ta, tỉ mỉ kiểm tra mắt bà.
Sau đó, nàng lấy ra vài cây kim, nhanh chóng đâm vào thái dương, bầu mắt và một số huyệt vị quanh
trán.
Mẹ chồng ta run bắn người: “Ôi chao, đau quá!”
Ta nằm trên giường, sợ xanh mặt: “Lạy trời, con nhất định sẽ chăm sóc thân thể thật tốt.”
Triệu Đắc Thiên không nỡ nhìn, quay đầu đi, siết chặt tay ta: “Lần này nàng biết sợ rồi chứ?”
Thu Muội nói mắt của mẹ chồng ta dù không thể phục hồi như ban đầu, nhưng có thể khôi phục được
sáu, bảy phần.
Tỷ phu của nàng mở tiệm thuốc trên kinh thành, nhiều năm qua nàng cũng theo mấy thần y học nghệ,
vậy nên dù chỉ là một cô nương quê mùa, nàng vẫn nổi danh là ‘thần y’.
Chỉ là, khí thế của nàng quá lạnh lùng nghiêm nghị, khiến người ta vừa gặp đã thấy kính sợ.
Thực ra, sợ cũng tốt—sợ rồi thì mới chịu nghe lời!
Nhìn xem mẹ chồng ta, ngày thường bà dữ dằn thế nào!
Vậy mà bây giờ, dưới cây kim của Thu Muội, ngoan ngoãn như một con mèo nhỏ nằm rúc trên giường.
Nghe tin ta bị bệnh, sáng hôm sau, cha ta vội vàng đánh xe ngựa đến tận nhà.“Con bé ngốc này, nhà họ Triệu giờ dựa vào lều làm đậu phụ mà mỗi tháng cũng kiếm được mấy lạng
bạc. Con phải biết giữ gìn sức khỏe đấy! Không thì một ngày nào đó, con làm lụng đến kiệt sức, nhà
người ta lại cưới thêm vợ mới, để người sau hưởng thành quả của con! Nhà họ Phan chúng ta không
chịu thiệt như thế đâu!”
Ta nằm trên giường, tức đến mức ho khù khụ: “Cha đang nói gì thế!”
“Nói lời hay với con đấy! Chỉ có cha mẹ ruột mới dám nói thật với con thôi!”
“Không sao đâu, con chỉ bị cảm lạnh, uống thuốc rồi là khỏi ngay.”
Cha ta ngồi xuống mép giường, nheo mắt nhìn ta đầy nghi hoặc: “Thế sao mặt mày vẫn tái mét thế
kia?”
Nhìn một lúc, bỗng nhiên vành mắt ông đỏ lên.
Ngay sau đó, sắc mặt lại thay đổi, giận dữ buột miệng mắng: “Cái lũ nhà họ Tiền đáng chết!”
Cha ta là người không bao giờ ngồi yên một chỗ, mỗi lần đến thôn Đào Thủy là lại phải đi dạo vài
vòng.
Ông thích náo nhiệt, thích tán gẫu, lại càng thích trêu đùa trẻ con.
Thế nên, ông lúc nào cũng mang theo một túi kẹo, gặp đứa trẻ nào cũng chọc ghẹo vài câu, rồi tiện tay
chia kẹo, khiến cả đám trẻ con cười khúc khích, lon ton chạy theo sau ông như đàn vịt nhỏ.
Ban đầu, vì hành động quá kỳ quặc, ông suýt nữa bị Lý chính trong thôn tưởng nhầm là kẻ bắt cóc trẻ
con, mém chút bị ăn đòn.
Nhưng bây giờ thì khác rồi, ba chữ “Phan Phú Quý” giờ đã nổi danh khắp thôn Đào Thủy.
Bây giờ, cha ta đã thành anh em chí cốt với Lý chính và các lão già trong thôn.
Ngay cả mấy bà hàng xóm thích tụ tập ngồi lê đôi mách, thấy cha ta cũng vồn vã chào hỏi: “Ồ, cha vợ
nhà họ Triệu lại đến rồi đấy à!”
Lần này cũng không ngoại lệ.
Ông mang theo túi lớn túi nhỏ đến thăm ta, còn tiện thể mang quà cho đám huynh đệ trong thôn: “Bánh
nếp này cho lão Điền, trà bánh đoàn viên tặng Lý chính, còn đây—trúc diệp thanh cho Phúc bá!”
Ta ngạc nhiên: “Trúc diệp thanh?”
Cha ta giậm chân: “Chậc, không phải loại ta pha cho lão già họ Tiền đâu, mà là rượu trúc diệp thanh
thật đấy!”
“Ồ, chắc đắt lắm nhỉ?”
“Đắt? Đáng giá lắm!”
Ông ta híp mắt, nháy mắt với ta đầy thần bí: “Thôn Đào Thủy này có rồng ẩn hổ tàng. Cái lão béo hay
đánh cờ với Lý chính ấy, ta thấy không phải hạng tầm thường đâu! Cả đời có khi chỉ gặp một lần, đã
gặp rồi thì phải kết giao cho tử tế! Người ta nhìn thấu mọi sự, nhưng không ai nỡ đánh kẻ biết điều. Ta
định dùng chân tâm đối đãi.”